Bát Nhã Tâm Kinh là một kinh chỉ có 260 chữ, nhưng các bài viết giảng về kinh này, phê bình diễn giải sửa đổi nhiều hơn 260000 chữ trong hiện tại ngày nay. Điều đó nói lên tầm quan trọng của Bát Nhã Tâm Kinh trong đạo Phật.
Bất kỳ nơi nào đều tụng Bát Nhã Tâm Kinh (BNTK) sau một thời ngồi thiền hay làm lễ hay các đám tang. BNTK mang tính chất như là một trí tuệ, như một kết luận kêu gọi hành giã đi đến sự giác ngộ hay một thần chú diệt trừ ma quỷ. Vậy BNTK là gì và tụng kinh Bát Nhã này ích lợi gì có giúp ta ngộ đạo hay không? Vì có quá nhiều bài viết về BNTK nên chúng ta chỉ gom tụ lại những điều cốt lỏi như văn tự Bát Nhã, quán chiếu Bát Nhã, thật tướng Bát Nhã. Thường các kinh được viết ra là ghi lại lời Phật dạy nhưng có BNTK không phải là kinh Phật nói và Pháp bảo đàn kinh là kinh do tổ Huệ năng nói. Hai kinh nầy rất thông dụng nhưng không phải do Phật nói.
Nguồn gốc:
Bản Maha Prajnaparamita Hridaya Sutra tiếng Phạn được ngài Huyền Trang đời Ðường sang Ấn Ðộ thỉnh về, rồi dịch sang tiếng Trung Hoa năm 649, tại chùa Từ Ân. Hiện nay, còn lại 2 bản Bát Nhã Tâm Kinh, một bản "dài" bằng tiếng Tây Tạng và một bản "ngắn" bằng tiếng Trung Hoa.
Bản chúng ta vẫn thường dùng tại Việt Nam là bản "ngắn" bằng tiếng Hán (gồm có 260 chữ), gần đây đã được dịch sang tiếng Việt trong những nghi thức tụng niệm. Ai là người nói ra kinh này thì không được biết chắc chắn. Nhưng chúng ta suy luận là đạo Phật là một tôn giáo, cần có đức tin. Đã tin là có một loạt Bồ Tát tu tập với hạnh nguyện là ở lại cõi ta bà này mà giúp đỡ chúng sanh với lòng từ bi. Ngoài biển khơi biết bao trường hợp đã khấn nguyện Bồ Tát Quán Âm giúp chống được bão tố hay thuyền chết máy hết xăng dầu. Nếu có Bồ Tát Quán Âm giúp người thoát nạn giông bão ngoài khơi thì câu chuyện Bồ Tát Quán Âm giúp ngài Huyền Trang đi sang Ấn Độ thỉnh kinh, qua sa mạc Gobi là chuyện có thể là thực. Truyền thuyết này logic vì Bát Nhã Tâm kinh với câu vào đầu là Quán tự tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã ba la mật đa tức là Quán Thế Âm Bồ Tát là thật, người đã hiện thân thành kẻ ăn xin giúp cho Huyền Trang 260 chữ BNTK nầy. Để rồi Huyền Trang đã mang ra đọc khi đêm tối bị ma quỷ phá và bão cát sa mạc vùi lấp ngài. Khi sang đến được Ấn Độ, Ngài Huyền Trang gặp lại người hành khất nầy và ngài nói ta là Quán Thế Âm Bồ Tát đây.
Khi về lại Trung Hoa, Huyền Trang viết lại bài kinh BNTK này và viết bằng tiếng Sanskrit Ấn độ, rồi từ Sanskrit đó dịch ra tiếng Hán và có kinh này. BNTK ra đời năm 649 như vậy sau khi Phật nhập diệt hơn 1000 năm. Khi đó đã có Trung quán luận và Duy thức luận từ lâu cũng như các kinh của Phật dạy rất thực dụng và phổ biến. Vì thế học BNTK là học tổng hợp các kinh luận của đạo Phật sau cùng nên có câu thần chú cuối cùng Gathe gathe paragathe... Ngoài quan điểm có vẻ vi diệu trên, chúng ta cũng có nguồn gốc kinh do Bồ Tát Long Thọ viết.
Những vấn đề liên hệ với Bát Nhã Tâm Kinh:
BNTK có phải do đức Phật giảng không?
- Không, vì nó ra đời sau khi đức Phật nhập diệt 1000 năm. Đức Phật có nói về Không không? - Có trong kinh A hàm khi các trưởng lão Bà la môn hỏi về thanh tịnh tâm? Phật dạy hãy an trú trong Không.
BNTK có phải là một quyển kinh không?
- Không, vì nó chỉ là một summary con đường tu đạo Phật.
BNTK có phải là bài chú mật tông không?
- Không, vì nó còn có diễn đạt Tánh Không và các giai đoạn tu tập tổng hợp của đạo Phật.
BNTK có phải là diễn đạt của Trung quán luận với Tánh Không không?
- Không, vì nó còn có gốc nhìn của Duy thức luận và nó có sau khi Duy thức luận ra đời.
Tại sao BNTK lại được tụng ở tất cả các môn phái đạo phật như Tịnh độ tông, Thiền tông, Hoa nghiêm tông, Pháp hoa tông …- vì nó là bảng tóm lược của tất cả mọi đường tu tập của đạo Phật.
BNTK được Huyền Trang dịch ra chữ Hán, được Cưu Ma La Thập dịch ra và nhiều người khác nữa dịch nên có khi nó chỉ 260 chữ, có khi có nhiều chữ hơn và ngày nay tại Mỹ người ta dịch lại Bát Nhã TK bằng lời dẫn giải cho dễ hiểu nên không còn 260 chữ nữa. Ngay cả Thiền sư Thích Nhất Hạnh cũng đã dịch lại BNTK theo lời của thầy sửa chữa.
Mọi người đều đồng ý là BNTK là cô đọng về Tánh Không mà muốn thấu đạt Tánh Không này phải đạt được tánh giác cao vì Bát Nhã là trí tuệ là tuệ giác nên có khi còn gọi là bất khả tương nghị nên không thể dùng ý thức mà phân tích tổng hợp được. Nhưng cũng cần phải có thuật ngữ thông dụng để thấu hiểu ý nghĩa của BNTK. Rất nhiều người cho rằng phải tu tập nhiều bước rồi mới học đến BNTK tức là phải kinh qua nhiều Phật pháp cơ bản của các môn phái mới hiểu được chữ Không nầy. Như vậy chúng ta nhảy thẳng vào BNTK mà chưa qua các bước cơ bản triết học đạo Phật thì sẽ không thể nào lý giải đúng được.
- BNTK được tụng cho các lễ mai táng cho người chết là vì nó có tác dụng như ngài Huyền Trang kể lại là dẹp được các ma quỷ, các chướng ngại các vong linh để cho người chết được rộng đường đi đến siêu thoát.
- Rất nhiều người viết và giảng về BNTK và cũng lặp đi lặp lại nhiều khía cạnh hơi khác nhau, cũng có người phân tích Tánh Không Bát Nhã. Tùy theo con đường tu đạo mà các thầy giảng Tánh Không khác nhau vì lý do BNTK chỉ có 260 chữ quá cô đọng nên ai hiểu góc độ nào sẽ giảng gốc độ đó.
- Sơ lược về triết lý thiền tông. Thiền định là đường lối tu chính của đạo Phật nên không có tông phái thiền riêng biệt vì đức Phật ngộ đạo do thiền. Nên tông phái riêng về Thiền tông chỉ có sau 1000 năm đức Phật nhập diệt nhưng Thiền tông cho rằng nó xuất phát từ Đức Phật rồi đến Ma Ha Ca Diếp. Thiền tông chủ xướng giải phóng tâm, đi về hiện tại mà không có quá khứ hay tương lai, đầu tiên là thiền chỉ, thiền quán, chỉ là chỉ định còn quán là quán chiếu tuệ giác. Sau đó là thiền Tánh Không ra đời và cuối cùng là Như lai tạng. Riêng về Tánh Không thì sự ra đời của Trung quán luận Long Thọ và tự Tánh Không là một mâu thuẫn đối chọi. Trung luận thì cho là vạn pháp không tự tánh vì do duyên mà giả hợp lại thành hình, còn đại thừa thì nhìn về bản thể sự vật là tự Tánh Không là Phật tánh Chân tâm Tánh giác là đốn ngộ Huệ năng, hay tiệm ngộ của Thần tú, chính vì sự đối chọi này đẻ ra Như lai tạng có kết luận tổng hợp lại cả hai gọi là Chân không Diệu hữu tức là đi từ sự phủ định đến sự xác định được hiểu là chân thật là không nhưng lại cuối cùng là có. Kết luận là sự buông xã tuyệt đối hoàn toàn (beyond) siêu việt. Nghĩa là từ tương đối đến tuyệt đối. Tương đối là không tự tánh giả hợp do duyên đến tuyệt đối là Tánh Không Phật tánh Chân như. Hình thức xem như đối chọi nhưng viên dung hòa hợp là lý thuyết cơ bản đạo Phật Hoa nghiêm kinh.
Văn tự Bát Nhã
Trích bài của cư sĩ Trịnh Nguyên Phước, Người cư sĩ Paris:
"Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Ða, thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thế khổ ách". "Bồ Tát Quán Tự Tại, sau khi nhìn sâu vào sự vật bằng trí tuệ Bát Nhã, liền thấy rõ rằng năm uẩn đều không, cho nên vượt qua khỏi mọi khổ ách". "Xá Lợi Tử, sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ tưởng hành thức, diệc phục như thị". "Này, Xá Lợi Tử, sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc, sắc tức là không, không tức là sắc, thọ tưởng hành thức, cũng đều như vậy". Khung cảnh xuất hiện của hai câu đầu này có thể hiểu theo hai cách, tùy theo bản kinh "ngắn" hay bản kinh "dài" :
a) Theo cách hiểu thông thường, dựa lên bản kinh "ngắn" (phổ biến tại Trung Hoa, Việt Nam), thì đây là lời giảng của đức Phật Thích Ca cho một đại đệ tử ngài là Xá Lợi Phất (Shariputra), sau khi lấy gương Bồ Tát Quán Tự Tại (cũng là một tên hiệu của Bồ Tát Quán Thế Âm, tiếng Phạn là Akita, là một tên hiệu của Avalokiteshvara), đã nhìn sâu vào sự vật bằng trí tuệ Bát Nhã, nên thấy rõ rằng năm uẩn đều không, và vượt qua khỏi mọi khổ ách...
b) Còn một cách hiểu thứ hai, dựa lên bản kinh "dài" (theo truyền thống Tây Tạng). Bản kinh này có thêm một đoạn đầu và một đoạn chót : "Bữa nọ, đức Phật Thích Ca cùng các vị Bồ Tát và các tỳ kheo tụ họp nhau ở trên núi Linh Thứu. Trong khi đức Phật thiền định, thì Bồ Tát Quán Tự Tại, sau khi nhìn sâu vào sự vật bằng trí tuệ Bát Nhã, liền thấy rõ rằng năm uẩn đều không, nên giảng giải cho Xá Lợi Phất Tánh Không của sự vật (...) Ðức Phật không nói một lời nào, và sau khi Bồ Tát Quán Tự Tại giảng xong, ngài xả thiền và nói : "Ðúng lắm ! Ðúng lắm ! Ta và các vị Bồ Tát hoàn toàn tán thành, và tán thán công đức của Bồ Tát Quán Tự Tại". Tất cả nghe xong đều hoan hỉ và cúi mình đảnh lễ đức Phật và các vị Bồ Tát".
Nhưng nếu hiểu như vậy, thì chúng ta có thể tự hỏi tại sao Bồ Tát Quán Tự Tại, là một nhân vật biểu tượng cho lòng từ bi, cứu khổ, lại giảng giải cho Xá Lợi Phất, một đại đệ tử của đức Phật nổi tiếng về thông minh và trí tuệ ?
Thật vậy, Xá Lợi Phất (Shariputra) là một đệ tử đặc biệt thông minh và thông thái của đức Phật. Chỉ 15 ngày sau khi theo hầu đức Phật, ngài đã đạt được giác ngộ, và theo lời của các đồng môn, "ngoài đức Thế Tôn ra, không ai có được một phần mười sáu trí tuệ của Xá Lợi Phất". Ngài lại đặc biệt có tài tổ chức, nên được đức Phật trao cho trọng trách giảng huấn tăng đoàn. Ðáng lẽ ra ngài phải là người thay thế đức Phật để điều khiển phong trào, nhưng chẳng may ngài đã viên tịch trước đức Phật 6 tháng. Tuy vậy ảnh hưởng của ngài vẫn tiếp tục trên nhiều thế hệ tăng già, với một số đi theo đường lối của ngài (Thượng Tọa Bộ), và một số chống đối lại ngài (Ðại Chúng Bộ). Bởi vì trí tuệ của Xá Lợi Phất bị đánh giá là khô khan, lạnh lùng, thiên về lý trí.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu được giá trị biểu tượng của bài giảng của Bồ Tát Quán Tự Tại, tượng trưng cho tinh thần từ bi, sự hiểu biết bằng trực giác (compréhension intuitive, directe), bằng "trái tim" (intelligence du coeur), cho Xá Lợi Phất, tượng trưng cho trí tuệ khô khan, dựa trên lý luận (intelligence analytique). Ý nghĩa của sự giảng dậy này là: không bao giờ trí tuệ khô khan, dựa trên lý luận, dù bén nhọn tới đâu chăng nữa, có thể đưa tới trí tuệ Bát Nhã siêu việt, qua tới bên bờ bên kia, tức là giải thoát. Chỉ có cái nhìn sâu (compréhension profonde), bằng trực giác, bằng "trái tim", mới đưa tới trí tuệ Bát Nhã, qua tới bên bờ bên kia. Ý nghĩa của chữ "tâm" trong Tâm Kinh cũng có thể hiểu được như vậy. Và chúng ta cũng không nên quên rằng Bát Nhã Tâm Kinh thuộc vào những bộ kinh Ðại Thừa, nên cũng không tránh khỏi thiên vị: nhân vật số một Ðại Thừa giảng giải cho nhân vật số một Tiểu Thừa, điều đó cũng không có gì là lạ...
Về nội dung, thì hai câu đầu này hết sức quan trọng, bởi vì vào đề đã nói ngay tới tính chất Không (Shunyata) của năm uẩn (khandha), là cái cốt tủy của bài kinh.
Nhắc lại là năm uẩn là: sắc (rupa, forme), thọ (vedana, sensations), tưởng (sanna, perception), hành (samkhara, volitions), thức (vinnana, conscience), là những cái gì mà họp nhau lại, tụ nhau lại (từ đó ra chữ agrégats) thành ra con người, thành ra cái ngã, cái ta. Nếu phân chia ra làm "thân" (corps) và "tâm" (esprit), (thật ra đạo Phật không có phân chia nhị đối như vậy), thì có thể nói một cách giản lược là sắc thuộc vào "thân", và thọ, tưởng, hành, thức thuộc vào"tâm". Ngày xưa, người ta cho rằng thân thể này là do tứ đại (đất, nước, gió, lửa) hợp thành; ngày nay, người ta biết rằng thân thể gồm có xương, thịt, da, đầu, bụng, tay chân, các bộ phận... muốn phân chia thế nào cũng được, cho tới mô, tế bào, phân tử, vừa phức tạp vừa liên đới với nhau.
Câu đầu nói rằng "Sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc", đã làm cho chúng ta suy nghĩ rồi, nhưng câu sau lại nhấn mạnh thêm nữa: "sắc tức là không, không tức là sắc". "Sắc = không, không = sắc". Như vậy là quá rõ ràng rồi, không thể nào chối bỏ được khẳng định này. Nhưng vấn đề là khẳng định (affirmation) này cũng lại là một phủ định (négation). Nói rằng "sắc" là "không" cũng có nghĩa là "không có sắc".
Nhưng nếu hiểu "không" là "không có", thì lại có vấn đề. Người ta sẽ có thể bẻ lại rằng: rõ ràng "có" rành rành như vậy, mà làm sao lại bảo rằng "không", rằng sắc là "không", rằng thọ, tưởng, hành, thức cũng là "không" ? Vậy thì ai đang viết đây, ai đang đọc đây, ai đang suy nghĩ đây ?
Thật ra, nếu muốn làm sáng tỏ nghĩa chữ Không, thì chúng ta có hai cách:
1. Phải đặt lại ngay câu hỏi: "Không cái gì ?". Bởi vì nếu bây giờ có một người cất tiếng nói lên: "Không", và chỉ có một chữ "không" thôi (trước đó không có gì), thì dĩ nhiên chữ "không" đó không có một ý nghĩa nào. "Không" phải là không một cái gì, chứ không thể nào "không" trống không được. Vậy thì "không" bắt buộc phải là không một cái gì, và "cái gì" đó chúng ta phải hiểu.
2. Muốn hiểu chữ Không thì phải bắt đầu bằng chữ "có". Quan niệm rằng mọi hiện tượng (phénomènes) (danh từ Phật là "pháp", dharma) đều có thật, gọi là "tánh hữu". Ðó là quan niệm thông thường nhất. Người ta thường tin rằng mọi hiện tượng, mọi sự vật chung quanh cũng như chính bản thân mình, là có thật (réel), là có tự tánh (nature propre), là cố định (fixe), bất di bất dịch (stable, inchangé), là một thực thể biệt lập so với những hiện tượng khác (distinct, indépendant). Rồi từ đó chấp (s'attacher) vào cái "có" (tức là "chấp hữu"), rồi vướng mắc, khổ đau triền miên...
Trong khi đó, theo tinh thần Bát Nhã, thì mọi hiện tượng trên thế gian (trong đó có chính mình) đều có "Tánh Không", nghĩa là không có thật, không có tự tánh, không cố định, luôn luôn chuyển đổi, và đều do duyên hợp thành. Không có hiện tượng nào có thể tách biệt riêng rẽ ra khỏi các hiện tượng khác, tất cả đều liên đới mật thiết với nhau.
Nguồn gốc Phạn của chữ Không cũng giúp chúng ta hiểu thêm về khái niệm này. "Shunyata": Tánh Không (vacuité), "shunya": không (vide), là từ chữ "svi" (làm căng phồng lên) mà ra. Cái gì căng phồng lên thì bên trong thường trống rỗng. Chẳng hạn như cái "ta", trông vẻ ngoài như căng phồng lên, "gồ ghề" lắm, do năm uẩn tạo thành, nhưng thật ra trống rỗng bên trong. Không có gì là cái "ta" ở giữa.
Nhưng nói như vậy không có nghĩa là không có gì hết. Ðiều lầm lẫn lớn nhất hay gặp phải là hiểu Không là không có gì hết, là hư vô (néant). Chính vì hiểu sai lầm Không là không có gì hết, là hư vô, cho nên người ta mới gán cho đạo Phật là một chủ thuyết hư vô (nihilisme). Người Tây phương thường dịch chữ Không là "vide" hay "vacuité", và thường dịch câu đầu của"Sutra du Coeur" là "La forme est le vide, et le vide est la forme". Thiết tưởng nên dùng danh từ "vacuité" hơn, bởi vì danh từ "vide" (vừa là tĩnh từ) thường làm người ta hiểu lầm là không có gì, là hư không. Trong khi đó, "vacuité" là một cái gì tế nhị hơn, có thể gợi nên tính chất không có tự tánh, không cố định, không biệt lập, không có thật. Trong nghệ thuật Thiền, người ta hay vẽ một vòng tròn để diễn tả cái Không, nhưng phải hiểu đó là Không, chứ không nên hiểu là con số không, hay không có gì hết.
Như vậy thì giáo lý vô thường (anicca), vô ngã (anatta), duyên khởi (paticca-samuppada) của đạo Phật đều nằm gọn trong một chữ Không!
Tính chất không cố định, không thường còn của năm uẩn chính là vô thường, tính chất không có tự tánh, không là thực thể biệt lập, mà luôn luôn tương hữu với nhau (Thiền sư Nhất Hạnh gọi là inter-être) chính là vô ngã, là duyên khởi. Vô thường, vô ngã liên quan mật thiết với nhau, chỉ cần một chữ Không cũng đủ diễn tả được điều đó. Xét cho cùng, nguồn gốc của Tánh Không đã có từ giáo lý nguyên thủy của đức Phật, nhưng chỉ được phát huy một cách toàn diện với sự xuất hiện của tinh thần Bát Nhã và phái Trung Quán(Madhyamaka), cũng được gọi là Không phái (Shunyata vada).
Nếu hiểu được chữ Không tức là hiểu được đạo Phật. Hành sâu được Tánh Không, như Bồ Tát Quán Tự Tại, tức là vượt qua khỏi mọi khổ ách, là giải thoát, là giác ngộ.
"Xá Lợi Tử, thị chư pháp không tướng, bất sanh bất diệt, bất cấu bất tịnh, bất tăng bất giảm".
= "Xá Lợi Tử, đó là tướng không của các pháp, không sanh không diệt, không dơ không sạch, không thêm không bớt". Câu này tiếp nối câu trước: vì tất cả các pháp (hiện tượng) đều không cố định, cho nên sanh trở thành diệt, dơ trở thành sạch, thêm trở thành bớt, nóng trở thành lạnh, đẹp trở thành xấu, v.v. Và vì cái này trở thành cái kia, cho nên thực ra không có sanh không có diệt, không có dơ không có sạch, không có thêm không có bớt... Tất cả đổi thay không ngừng, tùy duyên mà xuất hiện dưới tướng này hay tướng khác. Hơn nữa, sanh diệt, dơ sạch, thêm bớt, tự chúng không phải là những thực thể, đó chỉ là những danh từ, những khái niệm, những biểu tượng mà con người tự tạo nên bằng cái tâm phân biệt của mình. Câu này cũng làm chúng ta nhớ tới "8 cái không" bát bất của ngài Long Thụ (Nagarjuna), trình bầy trong Trung quán luận (Madhyamika Shastra): "Không sanh không diệt, không thường không đoạn, không một không nhiều, không tới không đi" (ni production ni destruction, ni anéantissement ni persistance, ni unité ni pluralité, ni venue ni départ).
"Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới".= "Cho nên trong tướng không, không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức; không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý; không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới".
Về mặt ngôn ngữ, chúng ta nhận thấy tiếng Việt chỉ có một chữ "không" để chỉ danh từ "Tánh Không" và trạng từ phủ định "không phải", trong khi tiếng Hán phân biệt danh từ "không" (Tánh Không) và những trạng từ phủ định "vô", "bất" và "phi". Ðó có thể là một trong những lý do dễ đưa chúng ta tới hiểu lầm về chữ Không trong đạo Phật. Trong danh từ Phật giáo, có 5 uẩn (agrégats), 6 căn (là 5 cơ quan giác quan và cơ quan tư tưởng : 5 organes des sens, et organe de la pensée), 6 trần (là 5 giác quan và tư tưởng : 5 sens, et la pensée), 12 xứ (là 6 căn cộng với 6 trần), và 18 giới (18 mondes). Tất cả đều không có gì là thực tánh, là cố định hết, tất cả đều tùy duyên mà ra.
"Vô vô minh, diệc vô vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí, diệc vô đắc".(Ở đây, đừng lầm chữ "diệc" với chữ "diệt", "diệc" có nghĩa là "cũng", "diệt" có nghĩa là "hủy diệt") = "Không có vô minh, cũng không có hết vô minh; cho đến không có già chết, cũng không có hết già chết; không có khổ, tập, diệt, đạo; không có trí tuệ, cũng không có chứng đắc". Như vậy có nghĩa rằng cái gì cũng là Không hết, ngay cả những điều căn bản trong giáo lý Phật, như Mười hai Nhân duyên (từ vô minh cho tới lão tử), Bốn Ðế (khổ, tập, diệt, đạo), mà người học Phật đã nghe đi nghe lại cho đến khi in sâu vào tâm khảm, và ngay cả cái trí tuệ chứng đắc mà người tu Phật vẫn hằng ao ước.
Vậy là thế nào? Nếu tất cả đều là Không, thì chẳng lẽ đạo Phật cũng là "không" hay sao? Dĩ nhiên câu này không khỏi gây hoang mang, nghi vấn và xáo trộn trong đầu người học Phật.
Nơi đây, chúng ta thấy tất cả sự thâm sâu vi diệu của tinh thần đạo Phật. Trong Kinh Bát Nhã, mỗi khi đức Phật thuyết giảng một điều quan trọng, ngài thường lặp lại "Na punar yathocyate" ("Tuy nói như vậy, nhưng không phải là như vậy"). Bởi vì đức Phật muốn lưu ý người nghe rằng ngôn ngữ, danh từ chỉ là một phương tiện, và khi ngài lên tiếng nói đã là sai, đã tách rời khỏi sự thật, chỉ có thể đón nhận được bằng thực nghiệm, bằng trực giác. Trong suốt lịch sử triết học và tôn giáo, có lẽ chỉ có đức Phật là người duy nhất nói lên những lời như vậy.
Ngài Long Thọ (Nagarjuna) cũng đã vạch rõ ra hai mức độ chân lý trong giáo lý đức Phật: tục đế (samvriti satya), tức là sự thật tương đối (vérité relative), theo quy ước (conventionnelle), và chân đế, còn gọi là đệ nhất nghĩa đế (paramartha satya), tức là sự thật tuyệt đối (vérité absolue), vĩnh cửu (éternelle), vượt khỏi khái niệm, ngôn từ (au-delà des concepts, du langage). Nhìn dưới khía cạnh tục đế, thì Mười hai Nhân duyên, Bốn Ðế có giá trị, nhưng nhìn dưới khía cạnh chân đế, thì Mười hai Nhân duyên, Bốn Ðế đều là không, nghĩa là không có tự tánh, không cố định. Sở dĩ đức Phật tạo dựng nên những điều đó, là để giúp cho chúng sanh diệt khổ, cũng như người thầy thuốc chế tạo ra liều thuốc để chữa cho người bệnh khỏi bệnh. Giáo lý đức Phật chỉ như cái bè dùng để qua sông, như ngón tay để chỉ mặt trăng. Ðó chỉ là một phương tiện, một giả thiết (prajnapti). Chấp vào đó, coi đó như là một sự thật cố định, là sai lầm vậy.
“Dĩ vô sở đắc cố, Bồ Ðề Tát Ðỏa y Bát Nhã Ba La Mật Ða cố, tâm vô quái ngại. Vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng cứu cánh Niết Bàn. Tam thế chư Phật y Bát Nhã Ba La Mật Ða cố, đắc A Nậu Ða La Tam Miệu Tam Bồ Ðề" = "Vì không sở đắc, nên Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Ða, tâm không ngăn ngại. Vì không ngăn ngại nên không sợ hãi, xa hẳn điên đảo mộng tưởng, đạt đến cứu cánh Niết Bàn. Chư Phật trong ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai) cũng nương Bát Nhã Ba La Mật Ða, đạt đạo quả Vô Thượng Chánh Ðẳng Chánh Giác".
Không sở đắc có nghĩa là không vướng mắc vào một điều gì, đạt được cái tâm như như, cho nên Bồ Tát nương theo tinh thần Bát Nhã, xa lánh tất cả những mơ tưởng sai lầm, và đạt được Niết Bàn. Chính là vô đắc mà đắc, không tìm mà đạt, đó mới là tinh thần Bát Nhã. Câu này cũng được hiểu là tu tập là làm giảm đi lậu hoặc phiền não chứ không có đắc lấy từ ngoài vô trong.
"Cố tri Bát Nhã Ba La Mật Ða, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhất thiết khổ, chân thật bất hư. Cố thuyết Bát Nhã Ba La Mật Ða chú tức thuyết viết: Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ Ðề Tát Bà Ha" = "Nên biết, Bát Nhã Ba La Mật Ða là đại thần chú, là đại minh chú, là vô thượng chú, là vô đẳng đẳng chú, hay trừ được hết thẩy khổ, chân thật không sai. Vì vậy nói chú Bát Nhã Ba La Mật Ða, liền nói chú rằng : Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đế, Bồ Ðề Tát Bà Ha ". Ðây nói về Bát Nhã Ba La Mật Ða, như một câu thần chú (mantra) mang một sức mạnh vô biên, có khả năng tiêu trừ được tất cả những khổ đau.
Sự xuất hiện của câu thần chú này vào cuối bài kinh vẫn còn là một nghi vấn cho những nhà Phật học. Có những nhà Phật học cho rằng vào lúc những bản cuối của Bát Nhã Tâm Kinhđược soạn thảo (thế kỷ thứ IV sau CN), thì Mật tông (tantrisme) đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ nơi dân gian, và đã bắt đầu xâm nhập vào Phật giáo. Ðiều đó giảng nghĩa tại sao bài Bát Nhã Tâm Kinh lại được kết thúc bằng một câu chú. Nguyên văn chữ Phạn là: "Gate gate paragate parasamgate bodhi svaha", có nghĩa là: "Vượt qua, vượt qua, vượt qua bên bờ kia, hoàn toàn vượt qua, hoàn toàn giác ngộ !" Nhưng còn một cách hiểu câu chú này, theo tinh thần Thiền, là đọc câu chú này không phải để hiểu, mà để chỉ thẳng vào tâm, cái tâm không không phân biệt, không ý niệm. Khác với phần đầu dùng ngôn từ, ý niệm để giảng giải, câu chú kết thúc này đánh thẳng một chùy vào trực giác, vào cái tâm đã mở rộng để sẵn sàng đón nhận trí tuệ vượt khỏi ngôn từ. Ðó là cách giảng của thiền sư Thanh Từ, và thầy có dẫn hai thí dụ là bài kệ của thiền sư Trì Bát đời Lý, dòng Tỳ Ni Ða Lưu Chi, và bài tán Tuệ Trung Thượng Sĩ bởi quốc sư Tông Cảnh, đời Trần, cả hai đều kết thúc bằng câu "Án tố rô tố rô tất rị".
Tài liệu tham khảo:
- Đọc và hiểu Bát Nhã Tâm kinh - Trịnh nguyên Phước - Người cư sĩ Paris.
- Dẫn vào Tâm kinh Bát Nhã - Thiền sư Suzuki - HT. Tuệ Sỹ dịch -Thư viện Hoa sen
- Nói chuyện về Bát Nhã Tâm kinh - HT. Thích Viên Minh -Thư viện Hoa sen.
(Còn tiếp)
Phổ Tấn