Dòng sông tâm thức: Tịnh Độ (I)

Phật giáo Tiền Giang - 13/10/2021

"Chỉ cần một niệm Phật là được rước đi" - Phép tu nầy nghe rất dễ dàng và đơn giản. Nhưng điểm cốt lõi của phép môn Niệm Phật là nhất tâm bất loạn mới được đưa về cõi Tịnh Độ.


 

Dẫn nhập
Từ lâu người ta thường bảo tu Tịnh Độ chỉ cần niệm Phật thì Phật A Di Đà có 48 đại nguyện trong đó có nguyện cứu giúp chúng sanh niệm Phật, sẽ được đưa về cõi Tịnh Độ để tiếp tục nghe Phật giảng. Chỉ cần một niệm Phật là được rước đi. Phép tu nầy nghe rất dễ dàng và đơn giản. Nhưng điểm cốt lõi của phép môn Niệm Phật là nhất tâm bất loạn mới được đưa về cõi Tịnh Độ. Đâu dễ chỉ cần một niệm Phật thôi mà được giảng giải rằng nhất tâm bất loạn là tập trung tâm vào một niệm Phật mà thôi. Đó là trạng thái Định của thiền. Muốn vậy cũng dùng thiền để niệm Phật tức là thiền trong Tịnh Độ. Khi Phật giảng cho rằng bên phuơng tây có Phật A Di Đà với 48 lời đại nguyện thì chúng sanh vội vàng đi theo tu phép môn Tịnh Độ này. Tu này Phật dạy lối tu tha độ khi chúng sanh không đủ sức tự mình thắp đuốc mà đi theo Phật.

Đặt tâm ở Cực lạc - HT. Thích Trí Quảng
Theo pháp môn Tịnh độ, trì danh niệm Phật là bước đầu của hành giả thực tập và giai đoạn thứ hai là quán tưởng niệm Phật mới là pháp chính yếu giúp chúng ta vãng sanh. Vì nhờ trải qua quá trình công phu niệm danh hiệu Phật A Di Đà như vậy, chúng ta đi vào ức niệm, hình dung được Phật A Di Đà cùng Thánh chúng và thế giới Cực lạc.
Dùng pháp quán này, chúng ta nương theo kinh Quán Vô lượng thọ mà quán tưởng về Cực lạc, về người tu ở đó, quán tưởng về Phật A Di Đà đang thuyết pháp. Đó chính là bước tiến phát huy được tâm linh của chúng ta, vì đã rời ngữ ngôn văn tự. Vì vậy, hành giả tu pháp môn Tịnh độ có cái nhìn khác hơn người thường. Người thường thấy cảnh vật hiện hữu chung quanh, nhưng người quán tưởng niệm Phật, nhiếp tâm niệm Phật thì đi lần vào nội tâm, nên thế giới bên ngoài dần dần được đóng kín lại. Chính vì thế mà pháp môn Tịnh độ được xem là thù thắng, vượt ra ngoài Trì danh niệm Phật.
Thật vậy, từ từ đóng kín lại thế giới bên ngoài, thể nghiệm pháp niệm vô niệm là không sử dụng ngữ ngôn, sắc tướng, không niệm theo thanh trần bên ngoài; nhưng niệm này luôn có trong tâm chúng ta. Thực tu như vậy, thì thế giới Ta-bà phiền não nhiễm ô từ từ rơi rụng, không còn tác động tâm chúng ta. Các Phật tử nên suy nghĩ ý này.
Khi niệm Phật A Di Đà đến mức không còn nghe âm thanh chung quanh, không còn thấy cảnh vật chung quanh, thì đã đồng với pháp giải thoát mà Đức Phật dạy cho hàng Thanh văn tu hành để vào Niết-bàn là Không, vô tác, vô nguyện.
Chúng ta niệm Phật khởi đầu còn nghe trần duyên, kế tiếp nghe tiếng niệm Phật của mình và sau cùng, tiến đến trạng thái tâm trống không, an lạc, giải thoát; nghĩa là chúng ta niệm Phật A Di Đà cũng đã đi vào cửa giải thoát của Phật dạy cho hàng Nhị thừa.

Trên bước đường tu, đòi hỏi chúng ta nhiếp tâm thì đến Cực lạc và tâm thanh tịnh được, trong lúc hành đạo ở Ta-bà.

Nếu bên trong chúng ta có hạt giống Tịnh độ, hay tịnh nhân, thì chính hạt nhân Tịnh độ ấy làm cho chúng ta phát sinh niềm tin có Phật A Di Đà, có thế giới Cực lạc của Ngài và có người vãng sanh. Cho nên khi trần duyên chấm dứt, thì hạt nhân Tịnh độ sẽ nảy mầm, trở thành cây sen ở ao thất bảo của thế giới Cực lạc. Như vậy, người niệm Phật tuy thân ở Ta-bà, nhưng tâm đã đặt vào ao thất bảo của Cực lạc. Ngài Huyền Giác diễn tả ý này là “Thê tâm An dưỡng hương”, tức thân còn ở Ta-bà, nhưng tâm chúng ta đã đem đặt ở Cực lạc của Phật A Di Đà.
Người đem tâm mình đặt ở Cực lạc, chắc chắn phải khác với người để tâm ở Ta-bà. Nếu quý vị tu, để tâm ở Ta-bà, thì những điều chướng tai gai mắt luôn xuất hiện trước mặt và tác động mình. Tu như vậy, đối với huynh đệ đồng sự, chúng ta không bằng lòng, từ cách ăn uống, cách đi đứng, cách nói năng, hay cách lễ lạy của bạn cùng tu đều làm chúng ta bực bội.Để tâm Ta-bà mà tu Tịnh độ, chắc chắn không vãng sanh được. Hành giả tu Tịnh độ, dứt khoát phải chấm dứt tâm ở Ta-bà và đặt tâm vào Cực lạc. Nghiên cứu pháp môn Tịnh độ và trên bước đường thực tập niệm Phật, khi tôi hiện diện trong đại chúng, hoặc ở trong phòng, nhưng nhiếp tâm niệm Phật A Di Đà, tất cả cảnh vật trong phòng đều biến mất, cũng như âm thanh của đại chúng, tôi không còn nghe biết.Phải đem tâm mình đặt vào Cực lạc và đặt tâm vào Cực lạc rồi, Ta-bà liền biến mất và Cực lạc hiện ra. Pháp môn này giúp chúng ta tu hành đốt giai đoạn, đi tắt, nên thù thắng là vậy; vì từ Ta-bà đến được thế giới Cực lạc mà không cần trải qua ba a-tăng-kỳ kiếp để tu tất cả các pháp do Phật Thích Ca chỉ dạy.
Thật vậy, Đức Phật dạy rằng để đạt đến Niết-bàn, phải mất ba a-tăng-kỳ kiếp thành tựu tất cả các pháp và còn phải trải qua thêm một trăm kiếp nữa hành Bồ-tát đạo, cứu độ tất cả chúng sanh, mới thành tựu Phật quả. Nếu chúng ta theo con đường này, thì dẫu có đi trăm kiếp ngàn đời, không biết bao giờ mới đến được.
Chính vì sự khó khăn vô cùng của đường hiểm sinh tử mà chúng sanh khó vượt qua nổi, Đức Phật mới đưa ra pháp tu Tịnh độ nhằm giúp cho tất cả mọi người được giải thoát một cách nhẹ nhàng, bằng cách chỉ cần đem niềm tin sâu chắc của chúng ta đặt vào thế giới Cực lạc là cắt đứt niệm tâm ở Ta-bà ngay.
Nếu niềm tin yếu kém thì chẳng thể nào đến Cực lạc được; có thể ví niềm tin yếu ớt như chiếc hỏa tiễn không đủ sức mạnh, phóng chưa qua khỏi tầng không gian thì bị rớt xuống lại.
Thật vậy, khi chúng ta tĩnh tọa, hướng đến mục tiêu Cực lạc, dùng hết sức chánh niệm để phóng tâm qua Tịnh độ, vụt nhớ đến việc chưa làm, nhớ điều này điều nọ, là trở lại thực tế liền, giống như hỏa tiễn bị xì, rớt xuống. Bất giác này xảy ra trong đời tôi cả trăm lần. Nhưng chúng ta không nản lòng, mỗi lần rớt xuống, lại nỗ lực tìm nhiên liệu, tạo hỏa tiễn mới, tức cân nhắc, suy nghĩ xem tại sao tâm rớt trở lại Ta-bà, tại sao không về Cực lạc được. Vì vậy, tìm đọc thêm kinh điển, hay chú sớ của các bậc cao tăng; vì các ngài cũng từng trải qua những kinh nghiệm tu tập, để kiện toàn “phi thuyền Tâm” của chúng ta vượt qua được mười muôn ức thế giới mà đến Cực lạc.
Kinh Hoa nghiêm dạy rằng niềm tin là mẹ sanh ra các Đức Phật. Phải củng cố niềm tin cho thực vững chắc; vì nếu nhiên liệu không đủ, “phi thuyền Tâm” bay lên nửa chừng sẽ bị rớt xuống, nên chúng ta phải trang bị thực đầy đủ.
Xem tivi, chúng ta thấy phi thuyền đặt trên bệ phóng phải có những hỏa tiễn phụ bám chung quanh. Năm bộ kinh là Di Đà, Vô lượng thọ, Quán Vô lượng thọ, Hoa nghiêm và Lăng nghiêm ví như năm cái hỏa tiễn phụ được đặt chung vào một bệ phóng làm phương tiện tạo thành sức đẩy, để đưa “phi thuyền Tâm” chúng ta qua khỏi sức hút của Ta-bà. Lịch sử cho thấy các vị Tổ sư tu hành đều biết kết hợp nhuần nhuyễn các bộ kinh này để thăng hoa tâm linh.Trên đường đi đến Cực lạc, cần Tịnh độ Ngũ kinh, nhưng qua khỏi không gian rồi, phải bấm nút bỏ hỏa tiễn phụ lại, tức bỏ kinh lại để tâm chúng ta nhẹ nhàng, không còn vướng bận bất cứ thứ gì, mới đến Cực lạc được. Ý này thường được diễn tả rằng qua sông rồi bỏ thuyền lại.

Trong các kinh về Tịnh độ, Đức Phật Thích Ca và Đức Phật A Di Đà dạy chúng sinh tu tập pháp môn Niệm Phật, quán tưởng và phát nguyện vãng sinh, tạo các nhân duyên lành để hội đủ điều kiện vào thế giới Cực lạc.

Ta-bà chấm dứt, chỉ có tâm thanh tịnh, tức tịnh nhân, mới vào ao thất bảo ở Cực lạc được. Còn có bất cứ khái niệm nào đều rớt trở lại trần gian này.
Và tâm ở Cực lạc rồi, chúng ta nghe được pháp âm của Phật A Di Đà; nghe kinh bằng tâm, không bằng ngôn ngữ, tâm ta thông qua tâm Phật. Tu hành đạt đến sở đắc này, lúc nào cũng nghe Phật thuyết pháp. Người về Cực lạc nghe Phật A Di Đà thuyết pháp bằng tâm và nghe rồi, liền ngộ Vô sanh nhẫn. Chỉ một lần nghe Phật thuyết pháp mà ngộ Vô sanh, trong khi bình thường A-la-hán tu phải mất ba a-tăng-kỳ kiếp mới chứng được Vô sanh. Phải đến Cực lạc và nghe Đức Phật A Di Đà thuyết pháp bằng tâm mới chứng quả Vô sanh và từ Vô sanh lại hiện sanh, thì không rời An dưỡng quốc mà trở lại Ta-bà. Nói cách khác, tâm chúng ta vẫn an trụ Cực lạc, nhưng thân ở Ta-bà; bấy giờ, thân ở Ta-bà trở thành vệ tinh của Cực lạc, nên bắt được tín hiệu của Cực lạc, nghe được pháp âm của Phật A Di Đà.
Người có niềm tin ví như có máy vi tính nối mạng với toàn cầu, chỉ cần mở mạng là biết được thông tin trên khắp thế giới. Cũng vậy, người đắc đạo tuy ở Ta-bà, nhưng tâm an trụ Tịnh độ, nên nghe được Phật A Di Đà nói pháp và ai có nhân duyên tiếp xúc với họ, liền được an lạc giải thoát theo. Đó là sự kỳ diệu của hành giả thâm nhập Tịnh độ.
Trên bước đường tu, đòi hỏi chúng ta nhiếp tâm thì đến Cực lạc và tâm thanh tịnh được, trong lúc hành đạo ở Ta-bà, nhưng thân tâm và hoàn cảnh sống của chúng ta có sức thuyết phục, nhiếp hóa được mọi người. Đạt được thành quả như vậy, Phật mới dạy rằng mỗi người đi một phương để giáo hóa chúng sanh. Nhưng có người hiểu lầm ý này, vội đi giáo hóa, mà chưa giải thoát, thì không ai nghe theo, chỉ có phiền não phát sinh. Quan trọng là phải ngộ Vô sanh nhẫn, cuộc sống chúng ta thể hiện đạo giải thoát, người thấy thành quả tốt lành ấy mới giải thoát theo.
Nhân ngày vía Đức Phật A Di Đà, mong tất cả hành giả tu pháp môn Tịnh độ đặt tâm ở Cực lạc, học cách suy nghĩ, cách sống của Phật, Bồ-tát, La-hán, Thánh chúng Liên Trì hải hội, tâm hành giả được sáng tỏ theo sự giáo dưỡng của các Ngài. Sau đó, tâm hành giả quay trở về Ta-bà, làm nơi nương tựa an ổn, giải thoát cho mọi người thăng hoa đạo đức và tri thức.
Qua bài viết của HT Thích Trí Quảng, chúng ta nhận thấy Tịnh Độ đã kết hợp thiền chỉ thiền quán, niệm Phật nhất tâm bất loạn là đạt định của thiền chỉ rồi đến quán chiếu của đại thực là về tánh không, về duy thức như kinh Lăng nghiêm đạt ngộ vô sanh pháp nhẫn, nhẫn đây là đạt được nhập vào pháp vô sanh. Hoa nghiêm về tâm Nhất thiếc duy tâm tạo. Như vậy tu Tịnh Độ còn có thiền quán sau khi định bởi niệm Phật. Việc này đòi hỏi hành giả không dễ dàng như đã tưởng chỉ một niệm Phật là được rước đi. Cứ cầu mong Phật tha độ mà không tự độ tự mình thắp đuốc mà đi. Bài viết này tổng hợp Nguyên thủy như lý tác ý thủ hộ 6 căn và Đại thừa Hoa nghiêm Lăng nghiêm trung quán Tánh Không mà quán chiếu.
Ý nghĩa và giá trị của pháp môn Niệm Phật: Bài viết của Thiện Tài
Có người cứ nghĩ niệm Phật để Phật phò hộ, niệm Phật để Phật ban phước, niệm Phật để Phật tiêu tai giải nạn cho mình, thế là vô tình biến Phật thành ông thần ban phước giáng họa. Do mình tưởng như thế, tin như thế, chứ kỳ thực Phật không ban phước giáng họa cho ai. Bởi không ai có quyền năng ban phước giáng họa cả.
Đức Phật cho biết, tất cả đều vận hành theo quy luật duyên sinh nhân quả. Niệm Phật với dụng tâm sai lầm sẽ không đạt được giá trị to lớn của pháp môn Niệm Phật, mặc dù có được chút ít phước báo, có được sự an tâm tạm thời do niềm tin mang lại. Do duyên nghiệp mà chúng sinh phải mang lấy xác thân, hình hài như thế này hay thế khác, sinh ra trong hoàn cảnh tốt đẹp hay không tốt đẹp. Nhưng dù thuộc loại chúng sinh nào trong bốn loài noãn thai thấp hóa, sống trong hoàn cảnh tốt đẹp hay không tốt đẹp, tất cả đều không tránh khỏi tình trạng vô thường biến đổi, cho nên con người không thể nào tránh khỏi bất mãn, thất vọng, khổ đau, không thể nào có được một đời sống hoàn toàn tốt đẹp như ý muốn. Không ai hoàn toàn hạnh phúc mà không một lần khổ đau; không ai lúc nào cũng vui mà không có nỗi buồn phiền; không ai luôn toại lòng mãn nguyện mà chưa một lần thất vọng; không ai khỏe mạnh mà chẳng ốm đau; không ai trẻ mãi, sống hoài mà không già không chết v.v...Nếu tạo nghiệp thiện, nhân duyên lành thì đời sống hạnh phúc nhiều hơn đau khổ. Đức Phật không thể làm trái luật duyên sinh nhân quả, và cũng không ai có thể làm trái luật duyên sinh nhân quả. Cho nên cầu Phật, cầu trời, cầu thần linh gia hộ mà không thuận theo nhân quả làm lành, tạo nghiệp thiện, gieo nhân tốt thì chẳng gặt hái được kết quả gì.

Nhờ hành trì pháp môn Niệm Phật mà tâm định tĩnh, trí sáng suốt, ngoài không bị ngoại duyên tác động.

Trong các kinh về Tịnh độ, Đức Phật Thích Ca và Đức Phật A Di Đà dạy chúng sinh tu tập pháp môn Niệm Phật, quán tưởng và phát nguyện vãng sinh, tạo các nhân duyên lành để hội đủ điều kiện vào thế giới Cực lạc. Nhân tố quyết định để vãng sinh là phải “nhất tâm bất loạn”, “tâm không điên đảo” (Kinh A Di Đà). Các Ngài không bảo chỉ cần tin các Ngài thôi, tin có thế giới Cực lạc thôi, gọi tên Phật A Di Đà và cầu Ngài đến đón thì Phật A Di Đà và Thánh chúng tiếp rước đưa về Cực lạc. Nếu tâm còn bị vô minh ngăn lối cản đường, bị phiền não kiết sử trói buộc thì làm sao giải thoát khỏi thế gian này. Khi tâm không còn vô minh, phiền não kiết sử thì cảnh giới Cực lạc hiển bày, Ta-bà và Tịnh độ không khác.Niệm Phật là làm mới. Dù cho niệm Phật bao nhiêu câu, một ngày mấy thời, nếu không thay đổi nhận thức, tư duy, không điều chỉnh hành vi, lối sống của mình (chuyển nghiệp) theo hướng tích cực thì không cải thiện được gì cả, không làm mới được bản thân, không thay đổi được cuộc đời, không xây dựng được nền tảng an vui, hạnh phúc cho tương lai.
Nếu như thế thì niệm Phật để làm gì, chỉ cần thay đổi hành vi, lối sống là được rồi? Niệm Phật là một phương tiện giúp cho hành giả thanh lọc tâm ý, chuyển hóa nội tâm theo hướng tích cực để làm thay đổi hành vi, lối sống. Nhưng điều cần thiết là phải biết cách sử dụng phương tiện này, sử dụng có phương pháp để đạt được giá trị, lợi ích thiết thực.
Khi niệm Phật, hành giả nhiếp tâm vào câu Phật hiệu, từ đó tâm không khởi vọng tưởng (không nhớ chuyện đã qua, không mơ chuyện chưa tới; không suy nghĩ vẩn vơ, không để tư tưởng đi hoang vô định), tâm không tiếp xúc, không duyên với trần cảnh, không bị hoàn cảnh bên ngoài tác động, chi phối, phiền não bên trong không có điều kiện sinh khởi. Nếu chánh niệm được duy trì (tâm an trú vào câu Phật hiệu) thuần thục, chuyên nhất, lâu ngày thành tựu định lực và tuệ giác. Có định lực vững chắc và tuệ giác luôn soi sáng thì ngoại duyên không thể tác động, không thể chi phối hay gây ảnh hưởng; tâm không vọng động thì an nhiên tự tại, không có phiền não khổ đau. Có tuệ giác soi sáng thì không rơi vào mê lầm, điên đảo vì vọng chấp, thấy rõ được chân tướng của sự vật hiện tượng, bản chất của muôn pháp, từ đó mà hành vi, lối sống cũng thay đổi, cuộc đời cũng thay đổi. Đó là nương nơi câu Phật hiệu mà làm thanh tịnh tâm ý (tự tịnh kỳ ý), dẫn đến thay đổi hành vi, lối sống (vì tâm ý là chủ tạo tác, hễ tâm ý thay đổi thì hành vi, lối sống thay đổi), tức dùng phương pháp niệm Phật để chuyển ba nghiệp thân, khẩu, ý.
Nếu người niệm Phật thường nhớ nghĩ đến thân tướng, công hạnh, đại nguyện, cảnh giới trang nghiêm, thù thắng của chư Phật (thường là quán tưởng về Đức Phật A Di Đà và thế giới Cực lạc), thì dần dần chuyển hóa những chủng tử nghiệp bất thiện trong tâm thức thành chủng tử thiện, huân tập những chủng tử công đức, phước báo giống như chư Phật, chư Bồ-tát vào tâm thức của mình, làm phát triển lớn mạnh những chủng tử thiện vốn có trong tâm thức (cũng có thể hình tượng hóa là đánh thức ông Phật trong tâm mình, hay làm cho hạt giống Phật sinh trưởng và phát triển, hiện hành); càng tu tập càng chuyển hóa, từ tâm chúng sinh phàm phu thành tâm Phật.
Một khi tâm hành giả đã chuyển hóa thì chắc chắn cảnh giới sẽ chuyển hóa theo. Tùy mức độ chuyển hóa của tâm mà con người và hoàn cảnh sống của người niệm Phật có những thay đổi, và nhất là khi từ bỏ thân xác này (khi mãn phần, đời sống này chấm dứt) thì hành giả sẽ sinh vào cảnh giới tương ưng với thiện nghiệp của mình. Người tu Tịnh độ cầu vãng sinh về Cực lạc sẽ theo tâm niệm, nguyện lực của mình và công năng tu tập, nương Phật lực của Đức Phật A Di Đà mà thể nhập cảnh giới Cực lạc. Như thế thì niệm Phật chẳng những làm thay đổi con người và hoàn cảnh hiện tại của mình, mà sau khi thân hoại mạng chung, xả bỏ báo thân này còn có thể thay đổi cảnh giới, chuyển phàm thành Thánh, từ chúng sinh thành thượng thiện nhơn, Bồ-tát, Phật. Niệm Phật thành Phật chính là giá trị cao nhất của pháp môn Niệm Phật. Tâm tịnh thì quốc độ tịnh. Trong kinh Hoa nghiêm, Đức Phật cho biết: “Tất cả chỉ tâm tạo”, “Tâm như thợ vẽ khéo, vẽ nên các thế giới”. Thế giới Cực lạc do tâm từ bi và trí tuệ, công đức phước báo và nguyện lực của Đức Phật A Di Đà mà có. Hễ tâm ai tương ưng với cảnh giới Cực lạc thì sinh về Cực lạc.
Muốn đến thế giới Cực lạc phải có cái tâm như tâm của Phật A Di Đà, hoặc như tâm các vị Bồ-tát, các bậc thượng thiện nhơn, có chí nguyện như các vị ấy, đó là điều kiện để xây dựng thế giới Cực lạc. Nếu tâm chúng ta chỉ là những nhân tố, những thành phần xây dựng nên cõi trời, cõi người thì nó chỉ có thể kiến tạo nên cõi trời, cõi người. Nếu tâm chúng ta là những nhân tố, những thành phần có phẩm chất xấu hơn, không thể xây dựng nên cõi trời, cõi người, thì những chất liệu đó sẽ cấu thành những cảnh giới khác như a-tu-la, ngạ quỷ, súc sinh chẳng hạn.
Có người chỉ muốn niệm Phật để tâm bình an, niệm Phật để chuyển hóa phiền não khổ đau, họ không hướng về Cực lạc vì còn luyến ái cõi Ta-bà này. Người không có chí nguyện vãng sinh như thế thì khó có thể vãng sinh, bởi vì không có chí nguyện, ý hướng về Cực lạc, nói cách khác là không có những thứ cần thiết để gây dựng, thiết lập thế giới Cực lạc thì không có được thế giới này. Tuy nhiên nếu có tu tập, hành trì pháp môn Niệm Phật, có niềm tin về thế giới Cực lạc, về Đức Phật A Di Đà, tích cực hành thiện tu phước thì những nhân duyên lành đó không mất, cũng không phải không có ích trong hiện tại, và đến một lúc nào đó trong đời này hoặc đời sau những hạt giống lành đó sẽ phát triển lớn mạnh, khi hội đủ điều kiện nhân duyên chúng sẽ đơm hoa kết trái, người đó cũng sẽ phát nguyện vãng sinh hoặc chứng nhập cảnh giới Cực lạc ngay trên cõi đời này.

Ta-bà chấm dứt, chỉ có tâm thanh tịnh, tức tịnh nhân, mới vào ao thất bảo ở Cực lạc được. Còn có bất cứ khái niệm nào đều rớt trở lại trần gian này.

Trong hiện tại, pháp môn Niệm Phật giúp người hành trì thanh tịnh ba nghiệp thân, khẩu, ý; không tiếp tục tạo các nghiệp xấu, ác, bất thiện, từ đó hiện tại và tương lai không phải gánh chịu những nghiệp quả khổ đau, các nghiệp nhân bất thiện đã gieo trong quá khứ cũng không có điều kiện sinh khởi, hiện hành, chuyển hóa được phần nào nghiệp bất thiện khi chưa trổ quả, nhờ vậy cải thiện được đời sống hiện tại của mình và xây dựng được nền tảng tốt cho tương lai.
Nhờ hành trì pháp môn Niệm Phật mà tâm định tĩnh, trí sáng suốt, ngoài không bị ngoại duyên tác động, trong không bị phiền não vọng tưởng chi phối, nhờ đó không còn lo lắng, sợ hãi, khổ đau, có thể giải quyết được những khó khăn, vướng mắc gặp phải trong đời sống. Đó là kết quả của đời sống chơn chánh có tu tập, thực hành nếp sống đạo đức, tuyệt nhiên không phải là sự phò trợ, giúp đỡ bằng quyền năng hay phép màu của Đức Phật.

Cư sĩ Phổ Tấn

Dòng sông tâm thức: Duy Thức Luận (II)

Dòng sông tâm thức: Duy Thức Luận (II)

 -  Chủ Nhật- 22/09/2024 20:42

Duy thức dạy ta tu tập sau khi hiểu rõ thật tướng các pháp, hiểu rõ tâm mà áp dụng Tứ chánh cần quán chiếu thiền định cũng như Tánh Không. Kết hợp Nguyên thủy Trung quán Duy thức thiền định duyên khởi vô ngã vô pháp.

Dòng Sông Tâm Thức: Trung Quán Luận (I)

Dòng Sông Tâm Thức: Trung Quán Luận (I)

 -  Chủ Nhật- 08/09/2024 06:13

Đạo Phật với hai luận: trung quán và duy thức. Trung quán có trước duy thức gần 100 năm. Hai luận cứ này chống đối nhau từ khởi đầu, về sau hội nhập với nhau tạo ra câu: chân không diệu hữu tức là chân không là tánh không là tự tánh không còn diệu hữu là Duy thức học là Tha tánh không.

Pháp hội Vu lan tại chùa Linh Phước (Phật Đá) năm 2024

Pháp hội Vu lan tại chùa Linh Phước (Phật Đá) năm 2024

 -  Thứ 6- 16/08/2024 20:32

Từ ngàn xưa, hiếu đạo đã trở thành chuẩn mực đạo đức tốt đẹp của người Việt được thể hiện qua phép tắc, hành vi ứng xử của con cái đối với ông bà, cha mẹ, tổ tiên. Truyền thống đó được tôn vinh mỗi khi tiết Vu lan trở về.

Lễ Hằng Thuận – Nét đẹp Văn hoá Phật giáo thời hiện đại

Lễ Hằng Thuận – Nét đẹp Văn hoá Phật giáo thời hiện đại

 -  Thứ 2- 24/06/2024 05:59

Tiền Giang: Trang nghiêm lễ Húy kị Hòa thượng Thích Trí Long lần thứ 37

Tiền Giang: Trang nghiêm lễ Húy kị Hòa thượng Thích Trí Long lần thứ 37

 -  Thứ 5- 06/06/2024 15:40